Chữa bệnh vô sinh ở phụ nữ bằng đông y
VÔ SINH, CẦU TỰ
Con gái sau khi thành hôn trên 2 năm, chồng không bị bệnh mà vợ không sinh đẻ hoặc đã đã sinh đẻ 1-2 lần rồi mà mấy năm lại không sinh đẻ nữa (trừ trường hợp dùng các biện pháp tránh thai) đều gọi là chứng vô sinh ở phụ nữ.
Nguyên nhân vô sinh có thể chia ra 2 loại: một loại thuộc về sinh lý thiếu thốn vì tiên thiên, một loại về hiện tượng bệnh lý của hậu thiên, ở đây chỉ giới thiệu về chứng vô sinh bệnh lý.
Chữa chứng vô sinh ở nữ cần phân rõ chứng trạng, xét kỹ nguyên nhân gây bệnh để tùy chứng mà chữa. Ngoài việc chữa bằng thuốc ra còn cần chú ý phòng sự có chừng, làm cho tâm trí vui tươi, tinh thần phấn khởi thì hiệu quả chữa bệnh càng tốt hơn.
Trần Sỹ Đạc nói: ” nam không sinh được con có 6 bệnh, nữ không sinh được con có 10 bệnh” .
– Sáu bệnh vô sinh ở nam giới là:
+ Tinh lạnh: tinh ở trong thận lạnh, tuy có vào tử cung mà bào thai không thu nạp được nên chưa đầy 1 tháng lại thoát ra.
+ Khí suy: là dương khí suy, khí suy không chiến sự được lâu để mà kích động được cao hứng của nữ thì nam tinh đã tiết rồi mà nữ tinh chưa giao nên không thụ thai.
+ Tinh ít: tuy có đưa tinh vào nhưng chỉ được một ít thì làm sao đứng được cho nên vào rồi lại ra ngay.
+ Đàm nhiều: là nhiều thấp, nhiều thấp thì không thuần nữa, tinh hỗn hợp nên có sinh cũng chết non.
+ Tướng hỏa nhiều thì chiến sự lâu, nữ tinh đã qua rồi mà nam tinh chưa xuất ra, khi nam tinh tung ra mà nữ tinh không hứng nữa thì làm sao mà có con được.
+ Khí uất: là can khí uất tắc không có sinh khí, hỏa trong bào cung gặp phải một sự u sầu, dương sự nhân đó không phấn chấn, hưng phấn cửa nữ giới đang đến mà gặp sự u sầu của nam lại dấy lên, mất hết cả hứng thì làm sao có con được.
Tóm lại: nguyên nhân gây ra ra 6 bệnh của nam giới có nhiều cho nên khi chữa bệnh phải tùy nguyên nhân mà trị như: hàn phải hỏa, khí suy thì phải bổ, đàm nhiều thì phải tiêu đàm, hỏa thịnh thì phải bổ thủy, tinh ít thì phải ích tinh, khí uất thì phải thư khí, như vậy nam giới muốn có con không chỉ bổ vào thận dương mà thôi.
– Mười bệnh vô sinh nữ là:
+Bào thai lạnh: đường mạch của bào cung là để tiếp nhận tinh, ấm thì sinh vật, lạnh thì sát vật, nếu như tinh của nam giới nóng mà gặp bào cung lạnh thì sao không bị đẩy ra.
+ Tỳ vị hư hàn thì giữa đới mạch tất nhiên không có sức, khi tinh đưa vào bào cung thì tinh không thụ thai được.
+ Đới mạch căng: đới mạch nên hoãn mà không căng, đới mạch căng do khí vùng eo lưng không thông lợi, không có lực thì làm thế nào mà có thai.
+ Can khí uất: can khí uất thì trong không thư thái, làm thế nào mà vui khi giao hợp.
+ Đàm khí thịnh: đàm khí thịnh thì béo, nếu là người béo thì phía dưới bệu, tử cung tất sẽ co vào mà không tiếp nhận được tinh. Nếu như ở nữ giới rất khỏe cố sức giao chiến, tinh đưa vào thì tất nhiên thấp từ bàng quang lan tràn vào gây hại.
+ Tướng hỏa vượng: tướng hoả vượng thì đốt cháy vùng đất khô, cây cỏ sống làm sao được.
+ Thận thủy suy: thận thủy suy thì tử cung khô ráo, cây cỏ không có mưa thì nhu nhuận, thì tất nhiên cũng khô héo thì cũng trụy thai.
+ Mạch nhâm đốc có bệnh: giữa mạch nhâm và mạch đốc có chứng sán hà thì vật không tung ra được vì ở ngoài có chỗ che lại.
+ Bàng quang không khí hóa được: bàng quang và bào thai là tiếp nhận nhau, nếu khí hóa không hành thì khí thủy thấp thấm vào bào thai không thụ thai được.
+ Khí huyết hư không giữ được thai: phụ nữ mang thai cần khí huyết đầy đủ mới nuôi dưỡng được, nếu khí hư thì dương suy, huyết hư thì âm suy, bào thai sẽ trụy xuống mà không nâng lên được tất nhiên là tiểu sản.
Tóm lại: Muốn chữa bệnh vô sinh ở phụ nữ cũng tùy vào nguyên nhân mà điều trị, như: bào thai lạnh phải ôn, tỳ vị hàn cũng phải ôn, đới mạch căng phải hoãn, can khí uất thì phải khai, đàm khí thịnh thì phải tiêu, tướng hỏa vượng thì phải bình, thận khí suy phải bổ, mạch nhâm đốc có bệnh thì phải trừ, khí hóa bàng quang không thịnh thì phải giúp thận khí, khí huyết không giữ được thai bổ ích khí huyết thì phụ nữ có thai và chữa được.
NGUYÊN NHÂN VÔ SINH Ở PHỤ NỮ
- Hư hàn
Lúc hành kinh giữ gìn không cẩn thận, ăn uống nhiều đồ sống lạnh, hoặc hóng gió lạnh xâm vào kinh huyết, kết đọng ở tử cung, hoặc phòng sự không dè dặt, hoặc ngồi lâu chổ đất ướt tổn hại dến chân khí, làm mạch xung nhâm không sung túc, hoặc chân dương không đầy đủ, không hóa khí hành thủy được, hàn thấp dồn vào trong tử cung.
- Huyết hư
Thân thể vốn yếu, âm huyết kém thiếu, mà không giữ được tinh.
- Đàm thấp
Phụ nữ béo mập, sức vóc tương đối tốt, ăn thịt và uống rượu nhiều sinh ra đàm thấp rồi tắc đọng ở tử cung mà không giữ được tinh.
- Can uất
Tâm tình không thư thái, can khí uất kết, sơ tiết không bình thường làm cho khí huyết mất điều hào.
- Huyết nhiệt
Uống nhiều thuốc ôn nhiệt quá, hoặc huyết hư hỏa thịnh, nhiệt ẩn nấp ở mạch xung nhâm.
Chữa vô sinh ở phụ nữ bằng đông y
-
Vô sinh ở nũ Thể hư hàn
1.1. Triệu chứng
Bụng dưới giá lạnh, đau bất thường, kỳ kinh có lúc muộn, sắc huyết nhợt mà ít, rêu lưỡi mỏng, mạch trầm trì, nếu kiêm thận hư thì tinh thần hơi kém, ngày thường lưng đau, chân mỏi, tiểu tiện hơi nhiều, kinh huyết ra ít, ít tình dục, chất lưỡi nhợt rêu bình thường, mạch trầm trì, chân dương không sung túc thì lưng đau như gãy, sắc mặt vàng xám, cảm thấy bụng dưới lạnh, tay chân mỏi mệt, chân lạnh mà nhức mỏi, miệng nhạt, thích ăn đồ cay, kinh nguyệt hơi muộn, có chứng bạch đới, đái rắt hoặc đái không cầm, chất lưỡi nhợt rêu trắng nhợt mà trơn, mạch trầm nhược.
1.2. Phương pháp điều trị: bổ hư, ôn hàn.
1.3. Phương thuốc: dùng bài Ngải phụ noãn cung hoàn.
Ngải diệp | 120g | Sinh địa | 40g |
xuyên khung | 80g | Bạch thược | 80g |
Hương phụ | 240g | Ngô thù du | 80g |
Đương quy | 120g | Quan quế | 20g |
Tục đoạn | 60g | Hoàng kỳ | 80g |
Tán bột, nấu hồ với giấm làm hoàn bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 5-7- viên với nước giấm nhạt vào xa bữa ăn, ngày uống 2 lần.
* Nếu kiêm thận hư thì nên bổ thận khí, bổ ích mạch xung nhâm, dùng bài Dục lân châu.
Bạch truật | 80g | Đương quy | 160g |
Phục linh | 80g | Lộc giác xương | 80g |
Xuyên khung | 40g | Xuyên tiêu | 80g |
Thục địa | 160g | Thỏ ty tử | 160g |
Chích thảo | 40g | Độ trọng | 80g |
Thược dược | 80g |
Đều tán bột, luyện mật làm hoàn bằng hạt ngô đồng, mỗi ngày uống 10-20 hoàn chia làm 2 lần, uống với nước sôi hoặc rượu vào lúc đói.
* Nếu chân dương không đầy đủ thì nên ôn dương cố thận, bổ tỳ thổ để hóa thấp, dùng bài Ôn bào ẩm.
bạch truật | 40g | Thỏ ty tử | 12g |
Sơn dược | 12g | Khiếm thực | 12g |
Ba kích | 40g | nhục quế | 8g |
Nhân sâm | 12g | Phụ tử | 12g |
Đỗ trọng | 12g | Bổ cốt chỉ | 8g |
-
Vô sinh Thể huyết hư
2.1. Triệu chứng
Săc mặt úa vàng, thần hơi kém, hình thể suy yếu, đầu choáng, mắt mờ, kinh nguyệt ít mà nhợt và co lúc ra muộn, lưỡi rêu mỏng, mạch hư sác hoặc trầm tế.
2.2. Phương pháp điều trị: dưỡng huyết, bổ thận.
2.3. Phương thuốc: dùng bài Dưỡng tinh chủng ngọc thang.
Thục địa | 40g | Bạch thược | 20g |
Đương quy | 20g | Sơn thù du | 20g |
-
Vô sinh Thể đàm thấp
3.1. Triệu chứng
Sắc mặt trắng bệch, hình thể béo mập, đầu choáng, tim hồi hộp, bạch đới đặc dính mà nhiều, hoặc có kinh nhưng điều sắc nhợt mà nhiều, lưỡi nhợt rêu nhớt, mạch hoạt.
3.2. Phương pháp điều trị: táo thấp, hóa đàm.
3.3. Phương thuốc: dùng bài Khải cung hoàn
Thương truật | 160g | bán hạ | 160g |
Hương phụ | 160g | Trần bì | 80g |
Lục thần khúc | 80g | Phục limh | 80g |
Xuyên khung | 120g |
Nghiền bột, nấu bánh làm hoàn bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 10 hạt với rượu ấm, ngày uống 2 lần.
-
Vô sinh Thể can uất
4.1. Triệu chứng
Tinh thần thường uất ức không vui, không thích nói cười, ngực sườn không thư thái hoặc bụng trướng đau, hay nằm mộng, kinh nguyệt sớm muộn không đều, chất lưỡi đỏ nhợt. rêu lưỡi trắng nhớt hoặc vàng mỏng, mạch huyền sác.
4.2. Phương pháp điều trị: thư can, giải uất, điều khí, kiện tỳ.
4.3. Phương thuốc: dùng bài Khai uất chủng ngọc thang.
Đương quy | 20g | Bạch thược | 40g |
Bạch truật | 20g | Phục linh | 12g |
Thiên hoa phấn | 8g | Hương phụ | 12g |
Đan bì | 12g |
-
Vô sinh Thể huyết nhiệt
5.1. Triệu chứng
Hình thể không suýt kém, môi hồng, mặt đỏ, trước khi hành kinh thấy nhức đầu, chóng mặt, họng khô, miệng đắng, kinh nguyệt có lúc sớm chất đặc mà nhiều, chất lưỡi hơi đỏ hoặc bình thường, mạch sác.
5.2. Phương pháp điều trị: tư âm, thanh nhiệt.
5.3. Phương thuốc: dùng bài Thanh cốt tư thận thang.
Địa cốt bì | 40g | Huyền sâm | 20g |
Bach truật | 12g | Thạc hộc | 10g |
Sa sâm | 20g | Mạch môn | 20g |
Đan bì | 20g | Ngũ vị tử | 20g |

MỘT SỐ BÀI THUỐC KINH NGHIỆM CHỮA VÔ SINH
- Ngũ tử diễn tông hoàn
Điều trị nam giới tinh yếu, liệt dương.
Thỏ ty tử | 320g | Ngũ vị tử | 120g |
Xa tiền tử | 120g | Phúc bồn tử | 160g |
Kỷ tử | 160g |
Luyện mật làm viên, uống 12g vào buổi sáng với nước cơm.
* Nếu tả xích kèm là thủy hư, uống cùng với Lục vị hoàn.
* Nếu hữu xích kém là hỏa hư, uống cùng với Bát vị hoàn.
– Cả hai bộ đều hư thì uống cùng bài Thập bổ hoàn và thường gia nhân sâm 160g, tang phiêu tiêu 160g, lộc nhung 160g hoặc hoàng kỳ 400g, nấu cao luyện mật làm viên thì công hiệu tốt hơn.
- Thập bổ hoàn
Điều trị khí huyết đều hư, thủy hỏa tiên thiên đều suy, người trẻ mà có dáng như người già thì dùng bài thuốc sau:
Lộc nhung | Sơn thù |
Đương quy | Bạch truật |
Trạch tả | Hoài sơn |
Phụ tử | Phục thần |
Nhục quế | Nhân sâm |
Liều lượng bằng nhau, luyện mật làm viên, mỗi lần uống 12g ngày uống 2 lần. Phương này cũng có ý nghĩa như bài Thập toàn đại bổ nhưng Thập toàn đại bộ trọng khí huyết hậu thiên. Phương này chú trọng thủy tiên thiên, thủy hỏa là các thể vô hình của tiên thiên.
- Điều kinh dục tử thang
Điều kinh lý tỳ, làm cho khí huyết đầy đủ, kinh điều hòa thì sẽ có thai.
Đương quy sao rượu | |
Đan sâm | Trần bì |
Bạc thược sao rượu | Hoàng cầm |
Xuyên khung | Bạch truật |
Chích thảo | Hương phụ |
Thục địa sao | Sa nhân |
Liều lượng như nhau, sắc uống vào lúc đói.
* Nếu kinh đến trước kỳ thì bội hoàng cầm, gia hoàng liên.
* Nếu kinh đến sau kỳ do huyết hư thì gia hoàng kỳ, bội xuyên khung, đương quy.
* Nếu đau bụng có khối thì gia: huyền hồ, đan bì.
* Nếu phát sốt thì gia: ngân sài hồ, địa cốt bì.
* Nếu xích bạch đới thì gia: sài hồ, thăng ma( sao rượu) bán hạ, bạch linh ( tẩm nước gạo) hoàng bá, tri mẫu ( sao rượu) can khương nướng để thăng dương, trừ thấp.
* Người béo đàm trệ nhiều thì gia: nam tinh, thương truật, bán hạ, bạch linh.
* Người gầy yếu, huyết ít không giữ được tinh thì bội xuyên khung, đương quy.
* Nếu kinh nhiều quá thì gia: đào nhân, hồng hoa, tô mộc.
* Nếu kinh tắc không thông thì gia: đào nhân, hồng hoa, tô mộc.
* Nếu khí thịnh hay giận thì gia: ô dược, sài hồ, hương phụ, trần bì.
- Dương khối thạch hoàn (dùng để điều trị nam giới tinh lạnh không con).
Tang ký sinh | 20g | Nhục dung ngâm rượu | 40g |
Thạc hộc | 20g | Dương khởi thạc nướng nghiền riêng | 40g |
Thiên hùng( phụ tử) | 40g | Thỏ ty tử chế rượu | 40g |
Phỉ tử( hạt hẹ) sao | 40g | Lộc nhung chưng với rượu, sấy khô, nghiền riêng | 40g |
Phúc bồn tử tẩm rượu | 20g | Trầm hương | 20g |
Bướm tằm tẩm rượu đốt | 20g | Ngũ vị tử | 20g |
– Lấy hồ nếp làm viên, uống với nước muối nhạt, ngày uống 20g.
– Theo sách Biện chứng kỳ văn thì có bài điều trị người gầy yếu lâu ngày không chữa, mỗi khi giao hợp xong mệt cả ngày, đó là do huyết hư. Huyết thì tàng ở can, tinh thì tàng ở trong thận, nếu can khí không khai thì tinh không tiết ra được nên càng hư thêm. Thận là mẹ của can, mẹ đã yếu nên tinh không nhuận ra để nuôi con mà can mộc mà can khí không có nước thì hỏa sẽ tự động ngầm đốt mất tinh càng hư, vả lại người gầy là nhiều hỏa lại thêm tiết tinh thì thủy càng ít mà hỏa càng bốc, eo lưng bị trống không, mệt nhoài mà nằm. Phụ nữ này dễ động hỏa nhưng thứ hỏa ấy tử can mộc mà ra là lôi hỏa không phải chân hỏa, không giao hợp thì thôi, giao hợp thì dễ tẩu tiết, âm hư hỏa vượng không thụ thai được. Cách chữa cần đại bổ thận thủy cho mộc vượng, huyết vượng thì chân hỏa thịnh nên sử dụng phương sau:
Thục địa | 20g | Bạch linh | 12g |
Đan bì | 8g | Hoài sơn | 12g |
Bạch thược | 20g | Sơn thù | 20g |
Đương quy | 8g | Cúc hoa | 6g |
Ngưu tất | 6g | Đỗ trọng | 8g |
Uống luôn 1 tháng thì chửa, khi uống không nên phòng dục, phương này chẳng những điều trị huyết hư mà còn ích tinh, làm cho tử cung dễ giữ nam tinh, huyết đủ tử cung dễ chứa được vật đó là cần thiết để thụ thai.
- Kiêm đề thang
Điều trị ăn kém, bụng nê đầy, người mệt, chỉ thích ngủ, mỗi khi giao hợp xong thì rên rỉ khó chịu, đó là do thận khí không đủ bởi lẽ khí thì nên bốc lên mà không nên hãm xuống, bay bốc lên thượng tiêu thì tỳ vị dễ tiêu hóa, hãm xuống hạ tiêu thì tỳ vị khó vận hóa. Người không có cơm nước nuôi dưỡng thì tinh thần tự nhiên rã rời, chỉ có khí ở trong thận thì vị khí không bay bổng lên được, không có hỏa khí trong thận, tỳ khí không hóa được, cho nên cần bổ khí thủy hỏa ở trong thận, nhưng nếu chỉ bổ thận mà không dùng bổ tỳ vị thì 2 khí thủy hỏa trong thận không nâng lên đến phần cao được.
Nhân sâm | 20g | Sơn thù | 12g |
Sài hồ | 4g | Ba kích | 40g |
bạch truật | 40g | Hoàng kỳ | 20g |
Thục địa | 40g | Kỷ tử | 12g |
Uống 1 tháng thì thận khí vượng, uống tiếp 1 tháng nữa thì có thai. Phương này thuộc bổ khí nhiều hơn bổ tinh, giống như bổ tỳ vị là chính vì tỳ vị khỏe thì dễ sinh tinh, đó là bổ tỳ chính là để bổ thận, tỳ vị đã vượng lại thêm vào thuốc bổ tinh nữa thì âm khí đã sinh, dương khí dễ thăng, không cần phải thăng đề mà khí tự bay bốc lên thượng tiêu.
Bác sĩ: Nguyễn Như Hoàn
Nếu bạn có thắc mắc gì về bệnh có thể đặt câu hỏi ở dưới đây, hoặc gọi 0972333003 hoặc gửi thư về email : bsck1nguyennhuhoan@gmail.com