BỆNH ĐƯỜNG MÁU THẤP.
-
Y HỌC HIỆN ĐẠI.
1.1. Đại cương bệnh đường máu thấp
Bệnh đường máu thấp là chỉ nồng độ đường máu quá thấp do nhiều nguyên nhân gây nên. Trong đó chứng 70% là đường máu thấp dạng chức năng, sau đó là u tế bào sản xuất I-su-lin, các loại bệnh nội tiết và bệnh gan. Biểu hiện chủ yếu là thần kinh trung khu và hệ thống thần kinh giao cảm bị kích thích.
1.2.Triệu chứng bệnh đường máu thấp.
1.2.1. Lâm sàng
Nói chung phát bệnh khi đói, trạng thái bệnh từ nhẹ đến nặng, số lần phát cơn từ ngẫu nhiên đến thường xuyên. Biểu hiện đầu váng, mắt hoa, mất sức, tim hoảng loản, đổ mồ hôi, sắc mặt trắng xanh, lo lắng, run rẩy thậm chí co giật, đột nhiên đổ ngã…lúc đầu là lớp vỏ đại não bị ứ chế, khám thấy khả năng nhận biết dần đần mất đi. Nặng hơn, các loại phản xạ mất, đồng tử thu nhỏ, hô hấp nông yếu, huyết áp hạ thấp.
1.2. Cận lâm sàng.
Xét nghiệm quan trọng nhất là kiểm ra đường máu (bình thường : 4,22-6,11 mmol/l).
Do nguyên nhân bệnh của bệnh này phức tạp, do vậy cần thiết phải kiểm tra chức năng gan, chức năng nội tiết liên quan và chức năng thần kinh để điều trị căn nguyên.
1.3. Chẩn đoán phân biệt
1.3.1. Tai biến mạch máu não.
Phát bệnh cấp tính, giai đoạn đầu xuất hiện hôn mê và liệt chân tay cơ thể, có tiền sử có huyết áp và dịch não tủy có hồng cầu…
1.3.2. Động kinh
Thường xuất hiện đột ngột, điện não đồ có rối loạn nhịp, sóng nhọn, dùng thuốc động kinh có hiệu quả.
1.3.3.Bệnh tâm thần
Người bệnh có đặc điểm tính cách nhất định, phát bệnh không có liên quan đến đói bụng, mà liên quan chặt chẽ với nhân tố tinh thần.
Ngoài ra, cần phân biệt với các bệnh như viêm não, bệnh tâm thần phân liệt, huyết áp thấp do vị trí tư thế, hạ calci máu…

-
Y HỌC CỔ TRUYỀN BỆNH ĐƯỜNG MÁU THẤP
2.1. Bệnh danh
Bệnh thuộc phạm trù “Hư lao”, “Quyết chứng”.
2.2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh.
2.2.1. Khí huyết không đầy đủ.
Tiên thiên bẩm phú không đầy đủ, hậu thiên lao động quá độ, ăn uống thất thường, tự lự quá mức, sau khi bệnh phát không điều dưỡng chu đáo, dẫn tới khí huyết không đầy đủ, tâm tỳ suy. Tỳ vị là nguồn sinh hóa của khí huyết, tỳ khí hư thì nguồn sinh hóa không đầy đủ, tỳ chủ thăng do tỳ hư không thể lên được thì sắc mặt trắng xanh, đầu váng mắt hoa, dưới hông đến tứ chi thì tứ ci mệt mỏi mất sức, vệ khí hư thì mồ hồi đàm đìa. Tim chịu trách nhiệm về huyết, tàng thần, tâm thần mất nuôi dưỡng, thần không thu liễm vào trong thì tim hồi hộp phiền loạn.
2.2.2 Khí hư đàm tụ.
Ăn uống không điều độ, bệnh lâu ngày sau phẫu thuật, tình chí uất, nhiều suy tư, dẫn tới tỳ mất vận hóa kiện toàn, tích thấp sinh đàm, đàm theo khí tăng, lên che thanh khiếu, do vậy tinh thần lơ mơ ý loạn; Đàm ngăn đường khí thì trong hầu nhiều đàm; Đàm trọc ngăn ở tỏng, vị khí ngược lên thì non mửa đàm rãi, đói không thể ăn; Đàm ngăn kinh lạc thì tứ chi tê dại run rẩy.
2.3. Biện chứng luận trị bệnh đường máu thấp
2.3.1 Thể khí huyết không đầy đủ.
* Chứng trạng
Sắc mặt trắng xanh, tim hồi hộp bứt rứt, đầu váng mắt hoa, mất sức hụt hơi, mồ hồi đàm đìa, không muốn ăn, lưỡi nhạt rêu trắng, mạch tế sác.
* Pháp điều trị.
Bổ ích khí huyết, dưỡng tâm ninh thần.
* Bài thuốc.
Bát trân thang gia giảm.
Đẳng sâm | 30g | Bạch truật | 9g |
Phục linh | 9g | Chích thảo | 5g |
Sinh địa | 30g | Thục địa | 30g |
Xuyên khung | 9g | Bạch thược | 9g |
Đương quy | 9g | Long nhãn | 30g |
Sơn thù | 9g |
* Ý nghĩa bài thuốc.
Bát trân thang nguồn từ “Chính thể loại yếu” có thể điều bổ khí huyết. Trong bài thuốc đẳng sâm, bạch truật, Phục linh, Chích thảo bổ khí giúp vận hóa, làm thực nguồn khí huyết sinh hóa của hậu thiên; Thục địa, Bạch thược, Đương quy, Xuyên khung dưỡng huyết hòa dinh, để an tâm thần, đồng thời Xuyên khung, Đương quy có tác dụng hành khí, cải thiện tuần hoàn huyết dịch, điều tiết trạng thái dinh dưỡng của tổ chức, cũng có tác dụng cải thiện tuần hòa. Đẳng sâm, Đia hoàng thành phần chức đường Glucose, qua nghiên cứu sơ bộ, bắc Đẳng sâm có thể tăng đường máu. Long nhãn ngọt ấm mà nhập tỳ, là thuốc tốt ôn bổ, có sở trường đặc biệt tư mà không nhớt,bổ mà không ngăn, trong nó cũng chứa lượng lớn đường Glucose , Protein; Sơn thù du chứa Glicerin Mã biên thảo, Glicerin đen, có thể ức chế thần kinh giao cảm, giảm nhịp tim, hạ huyết áp, gián tiếp gây hiệu quả trấn tĩnh, để liễm tâm, khí lao tán. Các thuốc phối hợp dùng, vượng huyết sung túc, tỳ kiện toàn tim yên, các triệu chứng tự giải trừ. Trên lâm sàng nếu tứ chi phát lạnh, tiểu tiện trong nhiều, có thể lấy Lộc nhung phấn 0,3,-0,9g uống, ngày uống 2 lần. Theo báo cáo nghiên cứu, lộc nhung chứa chất kích thích và đường, có thể đối kháng với tác dụng giảm đương của Insulin.
2.3.2. Thể khí hư đàm tụ.
* Chứng trạng
Ý thức lung tung, người mềm không có sức, đói không thể ăn, đột nhiên đổ ngã, thở khò khè, nôn mửa bọt dãi, tứ chi run rẩy, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch trầm hoàn.
* Pháp điều trị.
Trừ đàm khai khiếu, bổ khí phù chính.
* Bài thuốc.
Địch đàm thang (“Tế sinh phương”).
Xương bồ | 15g | Khương bán hạ | 9g |
Chế nam tinh | 9g | Trần bì | 6g |
Bạch phục linh | 9g | Chỉ thực | 9g |
Cam thảo | 3g | Đẳng sâm | 12g |
Thục địa | 15g |
*Ý nghĩa bài thuốc.
Trọng dụng Xương bồ, mượn khí cay mạnh của nó để khai khiếu bế, tính ôn táo để hóa đàm trọc, Khí hư đàm tục là nguyên nhân của bệnh này, đàm sản sinh, dịch kết, do tỳ không vận hóa thấp. Bài thuốc này trong hàm lượng chứa Nhị trần thang để kiện tỳ hóa thấp; Đồng thời Trần bì, Chỉ thực còn có công dụng hành khí, khí nhuận đàm dễ tiêu, hợp với thuyết “Trị đàm tiên trị khí” gia Nam tinh, Trúc nhự để tăng cương hiệu quả tiêu đàm; gia Đẳng sâm, Thục địa bổ huyết để phù chín hu tà.
2.3.3. Pháp điều trị khác
– Trường hợp phát bệnh chậm: Lấy 500g đậu đen, 1000g tủy sống lợn (đập vụn) thêm vào 1000ml nước cùng nấu, đun đến khi nước gần cạn, lấy đậu đen ra, đặt vào chỗ tối mát, họng khô. Mỗi lần 20 hạt, ngày 3 lần.
– Trường hợp phát bệnh gấp dùng Ngưu hoàng Thanh tâm hoàn, Tử tuyết đan là các thuốc thanh tâm khai khiếu, uống với nước ấm, đợi họ tỉnh dần, lại biện chứng dùng thuốc.
2.4. Phòng bệnh đường máu thấp
– Tránh kích thích tinh thần, ăn uống điều độ có thời gian, sinh hoạt có quy luật, không làm lao động mệt mỏi, kiên trì rèn luyện thể dục vừa khả năng, để tăng cường thể chất.
– Tích cực điều trị nguyên nhân đề phòng tái phát.